Giúp bạn đến shop nhanh nhất có thể
" itemprop="description">
Những quan điểm rất cơ bản trong hệ thống dây dẫn tín hiệu âm thanh liên quan đến những việc sau đây: Hệ thống dây phải tương xứng để tải cường độ cần thiết cho ứng dụng. Đối với micro và dây line, cần phải có thông số gauge từ 26 đến 22 (điển hình của dày micro chuẩn nhất). Trong ứng dụng chất lượng cao liên quan đến khoảng cách xa hơn vài mét, phải yêu cầu dây cable xoắn đôi cân bằng (balanced twisted-pair) cho tín hiệu micro. Đối với dây line, thường không hoàn toàn cần đến balance để tránh tiếng noise, khi mức tín hiệu có khuynh hướng cao hơn mức của trường điện từ. Nhưng line balance phải cần để đạt được sự linh hoạt tối đa trong việc sắp xếp sự tiếp đất hiệu quả, sẽ thảo luận trong bài viết này. Vì lý do này, line balance được coi là tiêu chuẩn công nghiệp cho tất cả hệ thống chất lượng cao, nhưng lại là ứng dụng nhỏ nhất.
Đối với dây loa, sự bọc giáp không cần thiết hay hữu ích, phương pháp thông thường là sử dụng những loại dây dẫn đôi đơn giản. Thường sử dụng loại dây có tiết diện đo ít nhất là 16 AWG (American Wire Gauge), và vài ứng dụng cần 10 gauge trở lên hay lớn hơn. Biểu đồ sự hao hụt điện năng theo chiều dài của dây điện, công suất output của ampli, và trở kháng loa sẽ đưa ra sau trong bài viết này.
Hệ thống tiếp đất không hiệu quả có lẽ là trở ngại phổ biến nhất hay gặp trong hệ thống để loại bỏ tiếng noise, đặc biệt là hum và buzz. Hệ thống phải được nối đất đúng cách và hiệu quả, vì lý do an toàn rất quan trọng, đặc biệt để giảm hay loại bỏ nguy cơ điện giật. Thật thú vị, mặc dù, chúng ta tìm cách loại bỏ balance phát sinh như là kết quả của chuyện có quá nhiều con đường để tiếp đất. Điều này gây ra nhiều vòng lập (loop), tạo ra trong những điểm đi xuống đất, có ảnh hưởng tác động như như ăng ten. Vòng lập như vậy thu nhận trường điện từ chung quanh, và thay vi nó thoát đi trực tiếp, lại tuần hoàn qua hệ thống, được khuếch đại cùng với mọi tín hiệu khác chúng ta đang khuếch đại. Việc sử dụng mạch balance giữa những thiết bị cho phép những vòng lập bị gián đoạn trong cách có thể an toàn nhất, mà không gián đoạn sự toàn vẹn của hệ thống tiếp đất tiêu chuẩn qua chân thứ ba của jack cắm điện AC.
Cuối cùng, những jack nối dùng trong bất kỳ hệ thống, như có thể mong đợi, là những liên kết quan trọng trong đường dẫn tín hiệu của bất kỳ hệ thống nào. Kiến thức về nhiều loại jack nối khác nhau thường dùng trong hệ thống pro-sound, và khả năng thích ứng của nó với những loại jack nối khác khi cần, vào những thời điểm có thể quan trọng khi làm công tác thực địa. Lựa chọn bộ chuyển đổi trôi nổi có thể cho phép sẵn sàng thích ứng cho tape-deck, CD v.v., cũng như cho phép patch thiết bị xử lý tín hiệu cuối cùng và/hay những power amplifier khi cần.
Những cách nối dây khác trong bài viết sẽ thể hiện ở phần cuối bài viết này.
Hình 1
Jack nối dây không cân bằng (unbalance).
Khi sử dụng jack TRS, ¼”, chiều phân cực bình thường là khi điện áp dương (positive) áp lên đầu tip sẽ tạo ra chuyển động của loa hướng về phía trước (được chỉ định là +). Cực này thường duy trì trong hệ thống bất kỳ có hệ thống dây unbalance.
Hình 2
Hệ thống dây jack nối cân bằng balance.
Micro balanced thường có dây Pin # 2 (+) và Pin # 3 (-), cả ở Mỹ và nơi khác. (Trên chính sợi dây, màu dùng cho mỗi pin không quan trọng miễn sao ở cả hai đầu đều giống nhau). Với mạch line, mặc dù, chúng ta thỉnh thoảng có thể vướng vào vấn đề khó chịu. Trái ngược với thỏa thuận quốc tế, vì truyền thống, jack nối line balance ở Mỹ là (tại giáo trình này) thường có dây Pin # 3 (+) và Pin # 2 (-). Trong khi luồng tín hiệu sẽ không có vấn đề nào về sự phân cực được trong những thiết bị ứng dụng chất lượng cao, đôi khi mạch line balance có thể quan trọng trong bất kỳ hệ thống nào để bảo đảm tất cả thiết bị được nối có cực tương tự như nhau. (Nếu tất cả đều thực hiện ở Mỹ, thí dụ, dùng cùng một loại phân cực rất có thể thắng thế trong tất cả). Nhưng việc quan tâm về phân cực có thể quan trọng, thí dụ, nếu nhiều power ampli khác nhau sử dụng bộ khuếch đại crossover-điện tử cho nhiều ampli có một switch để chọn giữa Pin # 2 (+) hay Pin # 3 (+). Giáp tiếp đất phải luôn luôn nối với Pin # 1.
Hình dưới: jack nối dây balance vào một jack 1/4” TRS.
Hình 3
Nối dây unbalance cho jack loại XLR hay TRS.
Hình trái: Đôi khi jack XLR cũng dùng để thực hiện cho tín hiệu unbalance, như với micro unbalance. Khi dùng dây XLR cho một line micro unbalance hay mạch line-level, cũng có vấn đề tương tự như trong hình trước. Phải quyết tâm thực hiện cho dù pin # 2 hay pin # 3 là dây nóng (hot +). Trên thế giới, Pin # 2 thường là tiêu chuẩn cho jack nối (+) hot hay high. Ở Mỹ và Anh, tuy nhiên, cấu hình phổ biến hơn, là như minh họa ở đây (rất tiếc là ở đây không bảo đảm điều này). Lưu ý: Đôi khi chúng ta cũng sẽ thấy output unbalance XLR trên mixer sản xuất tại Anh (thường pin # 3 (+), pin # 1 (-)). Xem thêm hình 4 và 13.
Hình phải: Bất cứ khi nào chèn phone plug unbalance vào một jack cắm TRS, ring sẽ nối đất và mạch tự động trở thành unbalance.
Hình 4
Thiết kế máy test dây dẫn tiêu biểu.
Đây là loại máy đo vô giá cho bất cứ ai làm trong pro-sound. Là thiết bị cho phép test nhiều loại dây có phân cực thích hợp, cũng như để phát hiện nối tắt-short (hai dãy dẫn chạm vào nhau) hay mạch hở (dây dẫn hay jack nối bị hư). Đồng thời, chúng ta có thể dùng như thử nghiệm để xác định jack nổi có pin nào với pin nào từ loại jack XLR đến jack 1/4”.
Hình 5
Nối dây jack phone 1/4” unbalance.
(A) Xác định bộ phận.
(B) Tháo vỏ jack, sau đó là miếng cách điện, xỏ vào đoạn cuối dây. Tước, bóc phần cách điện bên ngoài, dài bằng chiều dài của sleeve. Tách giáp, và xoắn nó để thành một dây dẫn.
(C) Đặt miếng cách điện bên ngoài ngay trước kẹp dây. Tước lõi dây giữa từ một điểm jack nối phía sau tip. Tráng chì hàn dây giữa và giáp (xem hình 16.6). Bẻ gập giáp như minh họa, và hàn nó vào bề mặt ngoài của sleeve. (làm nguội ngay lập tức với kìm chạm vào mặt sau của sleeve). Đưa dây giữa xuyên qua lỗ của tip; hàn và cắt đầu dây thừa. Bẻ gập phần cuối của tip nhẹ trở lại để giúp ngăn chặn đầu dây cắt xuyên qua miếng cách điện.
(D) Sử dụng kìm, kẹp uốn cong dây chung quanh miếng cách nhiệt bên ngoài. Kẹp dây lại, nhưng không quá chặt để khỏi cắt vào miếng cách nhiệt.
(E) Đẩy nhẹ miếng cách nhiệt ra phía trước cho đến khi nó bằng với răng ốc (nhưng không được nằm trên răng ốc). Đẩy nhẹ vỏ ra phía trước và vặn chặt là xong.
Hình 6
Kỹ thuật hàn cơ bản (jack XLR-loại đực-male).
Đầu tiên, cần phải dùng vài phương pháp kẹp hiệu quả để bảo đảm jack nối với chính nó, khi một tay giữ mỏ hàn và tay kia giữ dây. Ngoài ra, ở mức tối thiểu chúng ta nên có một kìm cặp nhỏ, kìm cắt nhỏ và một công cụ làm sạch mỏ hàn, cũng như vài phương pháp kiểm tra dây khi hoàn tất.
Hình trên: Nên nung nóng cả hai mối nối nối với mỏ hàn (hay súng) và nên tráng chỉ hàn vào mỗi đầu mỗi mối nối (điều này gọi là tinning). Bề mặt khi hàn cứng sẽ khá sáng bóng. Sau khi mối hàn trên cả hai đã cứng, dây sẽ gắn chặt hai đầu cuối và cả nung nóng cả hai đến độ tan chảy dính liền với nhau.
Hình giữa: Một mối hàn chính xác nhìn gần giống như hình minh họa, và bề mặt của mối hàn tự nó cần phải có một bề mặt hơi sáng bóng.
Hình dưới: Nếu mối hàn gồ ghề hay nhăn nheo (điều kiện gọi là mối hàn lạnh), rất có thể là đã không thực hiện được mối nối tốt, và cần phải làm lại mối nối.
Hình 7
Hàn dây jack TRS.
(A) Xác định bộ phận.
(B) Đẩy nhẹ vỏ và miếng ống cách nhiệt so với cuối cable. Tước vỏ cách điện bên ngoài dài bằng chiều dài của sleeve. Tháo dây dẫn ra khỏi giáp. Giữ dây với vật liệu cách nhiệt bên ngoài ngay trước kẹp dây, và tước vỏ dây đỏ (hay trắng) chỉ jack nối phía sau tip. Sau đó, tước vỏ dây đen hơi ngắn hơn so với dây tip. Tráng chỉ hàn tất cả dây, và cắt dây giữa khoảng 1/8” của dây trần còn lại.
(C) Hàn giáp vào bề mặt ngoài của sleeve, cho phép giáp còn đủ để uốn cong quanh phía bên kia của kẹp dây. Làm nguội mối nối ngay lập tức với kim.
(D) Chèn dẫn dây giữa vào mối nối của nó, và hàn vào chỗ của nó. Xén dây lòi ra. Uốn gập đầu của mối nối tip nhẹ trở lại để giúp ngăn ngừa dây bị cắt xuyên qua miếng cách điện.
(E) Dùng kìm, kẹp dây uốn cong quanh miếng cách nhiệt bên ngoài, nên bấm kẹp dây lại, nhưng không quá chặt, để khỏi cắt vào miếng cách điện.
(F) Đẩy nhẹ miếng cách điện về phía trước, cho đến khi nó sát với răng ốc. Đẩy vỏ về phía trước, và siết nó vào thật chặt.
Hình 8
Hàn dây jack XLR đực-male.
(A) Xác định bộ phận (hiển thị là jack ITT/Cannon XLR).
(B) Tháo và xỏ dây vào miếng chặn ở phía sau của vỏ jack. Sau đó, xỏ dây vào vỏ, tiếp theo là ống cách điện. (Lỗi phổ biến quan trọng là hay quên những bộ phận này phải xở theo thứ tự thích hợp trước khi hàn). Tước cách điện bên ngoài khoảng 1/2” trở lại. (minh họa ở đây là dây Belden • # 8412).
(C) Cắt dây đánh dấu, tháo bện giáp, và cắt những dây độn càng thừa.
(D) Tước khoảng 1/4” của mỗi dây giữa. Tráng chỉ hàn và xén bớt đầu dây trần còn khoảng 1/8”. Sau đó, xoắn giáp, đặt nó đúng vị trí đối chiếu với đầu jack đực. Sau khi tráng chỉ hàn giáp chắn, cắt nó dài tương tự như dây giữa.
(E) Hàn dây giữa đến chân của nó, bằng cách dùng chỉ hàn vừa đủ để vừa đầy đầu của chân, (tiêu chuẩn thế giới chủ yếu làm dây màu đen cho pin # 3 và trắng (hay màu đỏ) cho pin # 2, mặc dù quan trọng là nó đều giống nhau ở cả hai đầu của dây (nói cách khác, không bị đảo chiều phân cực) làm sạch bất cứ mối hàn nào, và kiểm tra cách điện có bị cháy hay lộn dây không.
(F) Đẩy ống cách nhiệt về phía trước, lên đến mặt bích của jack đực. Ống cách điện bên ngoài phải được ngang bằng, hay che phủ, hết cuối đầu jack. (Nếu có thể nhìn thấy bất kỳ dây giữa nào, kẹp cable không kẹp chặt được dây này, lý do là không cắt vỏ bên ngoài của dây quá dài).
(G) Đẩy vỏ về phía trước, xoay hướng sao rãnh của vô trùng với đường gờ của jack. Bắt chắc chắn vỏ vào jack bằng ốc vít. Đặt kẹp dày trên phía sau của vỏ, với sự chú ý định hướng kẹp cẩn thận, nếu dây nhỏ, phải quay tròn kẹp để hai môi kẹp bên trong và vỏ thẳng hàng để kẹp cable có hiệu quả.
Hình 9
Hàn dây jack XLR cái-female.
(A) Xác định các bộ phận (hiển thị là ITT/Cannon XLR).
(B) Tháo và xỏ dây vào miếng chặn ở phía sau của vỏ jack. Sau đó, xỏ dây vào vỏ, tiếp theo là ống cách điện. Tước vỏ cách điện bên ngoài khoảng 1/2” (dây Belden # 8451, dây mỏng hơn với giáp chắn bằng lá nhôm, được minh họa ở đây).
(C) Kéo giấy bạc ra khỏi bọc. Tước khoảng 1/4” vật liệu cách nhiệt từ mỗi dây giữa, để lại khoảng 1/4” phần cách điện giữa dãy trần vá cách điện bên ngoài. Tráng chỉ hàn dây trần và cách điện bên ngoài. Tráng thiếc dây dẫn giữa, và cắt nó khoảng 1/8” dây trần. Sau đó tráng chỉ hàn cho giáp. Xoay hướng nó với dây dẫn giữa để nó trùng với chân thích hợp của jack cái. Cắt phần cuối giáp vì vậy đó là mở rộng 1/16” ra ngoài dây dẫn giữa.
(D) Hàn dây giữa đến chân của nó, bằng cách dùng chỉ hàn vừa đủ để vừa đầy đầu của chân (tiêu chuẩn thế giới chủ yếu làm dây màu đen cho pin # 3 và trắng (hay màu đỏ) cho pin # 2, mặc dù quan trọng là nó đều giống nhau ở cả hai đầu của dây (nói cách khác, không phải là đảo chiều phân cực) làm sạch bất cứ mối hàn nào, và kiểm tra cách điện có bị cháy hay lộn dây. Hãy chắc chắn rằng cửa khóa đã đặt đúng chỗ.
(E) Đẩy ống cách nhiệt về phía trước, lên đến mặt bích của jack cái. Ống cách điện bên ngoài phải ngang bằng, hay phù hết cuối đầu jack. (một lần nữa, nếu có thể nhìn thấy bất kỳ dây giữa nào, kẹp cable không kẹp chặt được dây này, là lý do tại sao quan trọng là không cắt vỏ bên ngoài của dây quá dài).
(F) Đẩy vỏ về phía trước, xoay hướng sao rãnh của vỏ trùng với cựa khóa của jack. Bắt chắc chắn vỏ vào jack bằng ốc vít. Đặt kẹp dây trên phía sau vỏ, chú ý định hướng kẹp cẩn thận, nếu dây nhỏ hơn, phải quay tròn kẹp để hai môi kẹp bên trong và vỏ thẳng hàng để kẹp cable có hiệu quả.
Hình 10
Những tính năng của jack XLR.
Như đã đề cập trong hai minh họa trước, điều quan trọng là dây phải giảm độ căng ở chính mối hàn. Hình trái thể hiện thiết kế của ITT/Cannon. (Công ty này, tình cờ, là người phát minh ra cấu hình jack XLR nên thường gọi là jack Cannon). Trong thiết kế này, ốc vít thể hiện là cái kẹp dây tại chỗ. Vỏ ngoài phù hợp với thiết lập ốc vít như hình vẽ. Hình bên phải thể hiện ốc vít có răng ngược lại, mà Switchcraft, Inc đang nắm giữ bằng sáng chế. Ở đây vít siết vào jack khi quay ngược chiều, vì vậy nó không thể tình cờ bị rơi mất.
Hình 11
Vài phương pháp phân chia dây dẫn thiết thực.
Hình bên phải: Một rulô dây đôi của loại hình này cho phép phân chia dây micro thuận tiện cả ngắn lẫn dài, tuy nhiên chúng ta muốn phân loại nó. Hình trái: Một bộ cable đa lõi (snake) cuộn trên một rulô dây, với bộ chia output cho một mixer monitor trên sân khấu. Jack nối multipin cặp cuối cùng cho một mixer FOH. Hình giữa: Kết hợp hợp trên sân khấu vào một giá di động là phương pháp chia xẻ hiệu quả với cable snake (đặt trên rack ampli).
Hình 16.12
Bộ tiếp hợp (adaptor) tiêu biểu.
(A) Balance, trở kháng thấp sang unbanlance, transtormer /adapter trở kháng cao là những khuynh hướng tiện dụng. Tên gọi chung, một guitar có gắn pickup bên trong có thể dễ thích nghi với dây micro tiêu chuẩn. Loại này nhỏ gọn và tương đối rẻ tiền (trái ngược với hộp DI) và cũng sản xuất loại jack XLR cái (temale) đổi sang jack TRS đực (male). Nói chung, mức độ dòng mạnh mẽ sẽ bão hòa loại adapter, mặc dù chúng ta thường có thể nhận được ngay với một mức độ dòng thấp. Nếu cần được chuyển đổi một mức độ dòng mạnh, sử dụng hộp DI hay biến áp cấp dòng thích hợp khác.
(B) Hai jack TRS cái, cho phép hai 1/4” cắm để nối vào nhau.
(C) Jack TRS cái đổi sang jack phono (còn gọi là RCA) cắm cho tape deck in và output.
(D) Jack phono cái đổi sang jack ¼”.
(E) Dây phono (RCA) hình chữ Y, cho phép in hay out tapedaeck nối với một in/putput của mixer. (Trong trường hợp này chúng ta thường kết hợp những adaptor này, thể hiện trong C.
(F) Jack banana (power ampli) đôi, cắm vào bất cứ cấu hình được dùng cho dây loa (jack ¼” hiển thị ở đây cho thuận tiện).
(G) XLR dây hình chữ Y, cái sang hai jack đực, cho phép lượng cân bằng để cấp cho hai thiết bị khi cần.
(H) Dây XLR hình chữ Y, jack đực sang hai jack cái.
Lý tưởng nhất, những adaptor trong G và H nên thay thế bằng biến thế-cách ly, hộp chia hay kết hợp, ngay sau khi túi tiền cho phép. Điều này đặc biệt đúng với H, nơi kết hợp hai micro thành một channel input, khi trở kháng thấp của micro thứ hai làm giảm tín hiệu. Nó có thể, sử dụng với hai micro phù hợp khi thiếu hụt, thí dụ, cho hai tom-toms khi không đủ channel input để xử lý riêng mỗi cái.
Đồng thời, dây ¼” hình chữ Y thường chỉ nối song song.
(I) Mic Pad, xử lý tín hiệu micro rất mạnh trên mixer mà không có thiết bị chuyển mạch pad bổ sung. Thông thường sản xuất với độ suy giảm -15dB, -20dB hay -30dB.
Hình 13
Sự quan trọng của adaptor.
(A) loại XLR- quay vòng.
Những bộ adaptor này đã nói trước (prewired) để cung cấp sự thay đổi hoàn toàn đơn giản khí những channel của snake có dây theo hướng ngược lại cái chúng ta cần. Đây là một vấn đề thường gặp, thí dụ, với crossover output và tín hiệu khác quay ngược trở lại sân khấu. (Jack nối đôi cái là Switchcraft # 389 hay Neutrik # NA3FF; jack nối đôi đực là Switchcraft # 390 hay Neutrik # NA3MM.)
Lưu ý: B, C và D đòi hỏi hệ thống nói dây bên trong của người mua khi có những nhu cầu khác từ những người dùng khác nhau.
(B) Jack XLR sang jack ¼” đực (jack XLR cái là Switchcraft # 386A hay Neutrik # NA3FP;. XLR đực là Switchcraft # 387A hay Neutrik # NA3MP).
(C) XLR sang jack ¼”.
Cả B và C thường cần adaptor khi chuyển từ loại jack XLR sang jack phone TRS, hay hai jack TRS, cần phải có vài adaptor như vậy trong bộ đồ nghề của bất kỳ người vận hành hệ thống âm thanh nào, bất cứ nơi nào có khả năng gặp phải, thí dụ, cable snake với jack TRS khi quay trở lại sân khấu, hay bất cứ nơi nào khác thiết bị có thể cần được chuyển đổi sang định dạng khác. Như đã đề cập, tiêu chuẩn quốc tế là chân số 2 (+), mặc dù ở Mỹ, đường dây cấp tín hiệu hiện nay thường là pin #3 (+), nói cách khác, tip. Vài loại nối pin # 2 vào tip và vài loại nối pin # 3 đến tip, trong trường hợp này nên dán nhãn và giữ cẩn thận. Nếu chúng ta cần phải chuyển từ XLR balance đến jack ¼” unbalance, bộ adaptor trong C có thể thích hợp hơn trong B. Ở đây chúng ta có thể nối nó với TRS, và nếu cần, làm unbalance nó bằng cách chèn hai dây dẫn. (XLR cái là Switchcraft # 383A hay Neutrik # NA3FJ; XLR đực là Switchcraft # 38AA hay Neutrik # NA3MJ). Sau khi nối dây nó cho đúng nhu cầu cụ thể của bạn, nó phải được dán nhãn cẩn thận (thí dụ: Pin # 3 • tip, Pin # 2 -ring, Pin # I • sleeve, hay Pin # 3 đến tip, Pin # 2 đến ring và sleeve, v.v).
(D) Loại XLR-shunt adaptor. (Hinh trái: thể hiện Switchcraft $ 3FM; hình phải:, hiển thị Neutrik NA3MF) Đây là những XLR đơn giản mở rộng, cho phép tùy chỉnh hệ thống dây điện đảo pha, giữ lại pin # 1.
(E) Đảo Phase. Với bất kỳ bộ adaptor nào có dây tùy chỉnh, cần cẩn thận dán nhãn trên hệ thống dây dẫn của nó và sau đó quấn lại bằng băng keo.
Hình 14
Mẫu thiết kế dây bọc giáp.
Ở đây minh họa dây của TEAC Corp, cũng cho thấy cần phải che chắn hiệu quả trong bất kỳ dày micro hay dây tín hiệu nào, cho dù nó là balance hay unbalance. Hình bên trái, giáp xoắn ốc truyền thống chỉ có một phần hiệu quả trong việc che chắn tiếng noise ra ngoài.
Đây là điển hình của nhiều loại dây guitar rẻ tiền và những loại dây micro rẻ nhất. Đồng thời, như một dây tín hiệu có thể, trong trường hợp cực đoan, sẽ xuất hiện tín hiệu rất nhỏ (microphonic), đó là nghĩa đen của tiếng noise tạo ra khi dây dẫn bị xê dịch, vỗ hay bị cong. Hình giữa thể hiện giáp bện, thường dùng cho những loại dây micro chất lượng cao và dây nối. (Thật ra, tiếng noise không dội lại hoàn toàn, nhưng một phần thoát ra bởi giáp, hình minh họa của nó vẫn có điểm-tốt). Tuy nhiên, giáp rẻ tiền có thể để lại những khoảng trống nhỏ giữa những dải viền, do đó, một dãy chất lượng cao luôn theo thứ tự-nó có khuynh hướng không phải là chỗ để tiết kiệm tiền. Hình dưới minh họa giáp bằng lá kim loại. Đây là loại dây có hiệu quả cao, nhưng thường khuyên chỉ cho việc cài đặt cố định, vì lá này có thể gãy khi uốn qua lại nhiều lần. Nó cũng có khuynh hướng không được linh hoạt như dây chất lượng cao có giáp bện, vì vậy khi sử dụng thực tế nó ít khi hoàn toàn đúng. (Cable Snake sử dụng loại giáp này, nhưng do số lượng lớn dây dẫn có liên quan, những khúc cua quẹo được yêu cầu không bao giờ gấp nhỏ quá).
Hình 15
Jack nối Tini QG.
Loại jack nối này (tên thương mại là Tini QG), hiển thị ở hình trên trong sự quan hệ kích thước của nó đến một jack nối loại XLR và hình bên phải là kích thước trung bình so với bàn tay, đang ngày càng được ưa chuộng. Đối với jack nối của micro lavalier và ứng dụng khác, nơi mà dây và jack cần phải rất nhẹ và kín đáo. Cũng giống như jack nối loại XLR, những loại này cũng có một cơ chế khóa thiết kế ở cạnh bên để không thể vô ý ngắt.
Hình 16
Jack nối multipin tiêu biểu.
Hình trên bên phải và giữa: K series có jack nối truyền thống, sử dụng rộng rãi trong pro-sound cao cấp, đặc thù để patch đa hiệu ứng và những jack nối rack ampli.
Hình dưới bên phải: thường dùng Jack multipins lớn như thế này cho các jack nối của bộ snake, cả ở stagebox và cho break-out (còn gọi là tail hay pigtail).
Hình dưới: jack nối multipin cho mixer 40 channel. Đây là trường hợp quá khổ đủ để cho phép break-out nhét vào thùng đựng máy và những jack input channel vẫn còn cắm vào trong tiến trình vận chuyển.
Hình 17
Thí dụ về jack nối multipin cho hệ xử lý tín hiệu outboard và patch cho effect.
Đây là hệ thống rack patch cho mixer giống như trong hình minh họa trước. Loại thiết lập đặc thù cho compressor, effect/limiters và noise gate. Lưu ý, jack nguồn AC của rack sử dụng loại jack nối xoắn-khóa (twist-lock) để tránh vô ý ngắt jack nối, có dự phòng để jumper sang rack khác. Hình dưới là các jack nối multipin tại mixer, có vài jack Insert TRS nhìn thấy được..
Hình 18
Cấu hình chân của XLR.
Loại jack nối XLR cũng thấy sử dụng cho dây loa và các ứng dụng khác so với cable mic/line ba pin tiêu chuẩn. Trong hình là các cỡ dây dây tối đa đề nghị cho mỗi cấu hình pin (mặc dù đôi khi chúng ta có thể kéo dài nó ra một chút (thí dụ, 12 gauge trên jack nối ba pin, v.v). Chúng ta có thể, thí dụ, sử dụng XLR 4 pin cho một hệ thống monitor biamped (mặc dù hàn và lắp dây vào jack phải cực kỳ chặt chẽ ở đây). Loại jack 3 pin phổ dụng không được sử dụng cho đường dây loa (ở đây, cần xác định cẩn thận, nếu dây tự nó có thể có thể bị nhầm là một dây dẫn có bọc giáp). Khi sử dụng jack nối 3 pin cho đường dây loa, chúng ta dĩ nhiên có thể sử dụng loại jack 2 pin bất kỳ chúng ta có, miễn là nó được kết hợp và phân cực một cách thích hợp trong một hệ thống nhất định. Loại jack từ 5 pin đến 7 pin bình thường chỉ được sử dụng cho những ứng dụng có tín hiệu low-level cụ thể.
Hình 19
Jack nối EP.
Jack nối EP là tiêu chuẩn công nghiệp cấp độ cao cho thùng loa multi way. Hiển thị ở hình dưới bên trái là quan hệ kích thước của nó đến jack XLR, hầu hết thường sử dụng là cấu hình bốn, sáu, tám pin, cho hệ thống hai way, ba way và bốn way tương ứng. Nó thường có dây jack đực tại rack ampli và jack cái ở thùng loa, với jack output đực song song trên thùng loa. Cách tiếp cận này cũng cho phép dễ mở rộng line loa khi cần. Khi không có tiêu chuẩn phổ quát, cần phải thiết lập nó ở thiết kế sân khấu, hệ thống dây điện cho jack nối ampli-rack có hiệu quả phù hợp với hệ thống nối dây tại mỗi thùng loa.
Hình 20
Jack Speakon.
Hiện nay, loại jack này ngày càng sử dụng nhiều cho những hệ thống crossover active nối tới loại hình này, thiết kế bởi Neutrik, Inc. Thương mại là cấu hình bốn pin và tám-pin, một trong số những ưu điểm là không cần hàn (solderless) thiết bị đầu cuối và chi phí hiệu quả. Hãng sản xuất khác đã theo sau với sản phẩm tương thích như thiết kế cơ bản dưới tên thương mại khác. Loại jack nối bốn pin, tình cờ, được thiết kế để phù hợp trong cùng một cabinet- cutout giống như XLR, và loại 8 pin cùng cutout như jack nối EP.
Hình 21
Loại jack nối vặn-khóa (twist-lock).
Nhiều jack nối loại này đã tìm thấy cách của nó vào hệ thống hiện có trong lĩnh vực này như jack nối loa, do công suất, khả năng tải dòng cao, không cần hàn thiết bị đầu cuối, và cơ chế khóa làm cho gần như không thể tình cờ ngắt jack nối. Nếu gặp phải hệ thống sử dụng loại jack nối cho dây loa này, hãy nhớ, ý định thiết kế của ổ cắm là để thực hiện cung cấp điện AC tiêu chuẩn, US National Electric Code yêu cầu không được sử dụng dây loa cho hệ thống bất kỳ, trong đó sử dụng jack nối có dây giống hệt nhau để thực hiện nguồn cung cấp điện AC tiêu chuẩn (mặc dù vài mã địa phương có thể khác nhau, và hướng dẫn chì cài đặt tạm thời-nói cách khác hệ thống di động nói chung linh hoạt hơn cho việc cài đặt cố định). Những jack nối này có nhiều cấu hình khác nhau, không hoán đổi cho nhau được (nói cách khác, nó chỉ có thể cắm vào đúng cặp theo thể loại riêng của nó). Minh họa một mẫu nhỏ ở hình bên phải là 125V-15A, 125V-20A, và 125V-30A. (Phải phạt cảnh cáo cho vài thằng ngu không biết cách cắm jack nối AC thí dụ, rack sân khấu của ban nhạc vào loa của bạn, không thì bạn sẽ nói lời tạm biệt với loa. Thường gặp là jack nối 125V, nếu chúng ta sử dụng cựa màu bạc và xanh lá cây cho jack nói loa (tránh cựa đồng). Lý tưởng nhất, cần thay thế bằng jack nối thiết kế đặc biệt cho dây loa.
Còn tiếp...